Chính sách xã hội (Social policy) là một
kế hoạch hoặc chương trình hành động của
chính phủ hoặc chính quyền (các cơ quan thiết chế) nhằm cải thiện hoặc cải cách
xã hội. Một số chuyên gia và
trường đại học coi chính sách xã hội là một tập hợp con của
chính sách công[1] trong khi những người thực hành khác mô tả chính sách xã hội và chính sách công là hai cách tiếp cận riêng biệt, cạnh tranh cho cùng một
lợi ích công, với Chính sách xã hội được coi là toàn diện hơn chính sách công
[2]. Chính sách xã hội cũng có thể được mô tả là những hành động ảnh hưởng đến
phúc lợi xã hội của các thành viên trong xã hội thông qua việc định hình sự phân phối và tiếp cận
hàng hóa và
tài nguyên trong xã hội đó
[3]. Chính sách xã hội thường đề cập đến những
vấn nạn xã hội[4].Cho dù trường đại học tuân theo luận điểm nào thì chính sách xã hội đều bắt đầu bằng việc nghiên cứu
nhà nước phúc lợi và
dịch vụ xã hội[5]. Nó bao gồm chủ trương, đường lối, định hướng (Guideline),
nguyên tắc,
luật pháp và các hoạt động liên quan ảnh hưởng đến điều kiện sống có lợi cho
phúc lợi con người, chẳng hạn như
chất lượng cuộc sống của một người. Khoa Chính sách xã hội thuộc
Trường Kinh tế Luân Đôn định nghĩa chính sách xã hội là "một chủ đề liên ngành và ứng dụng liên quan đến việc phân tích các phản ứng của xã hội đối với nhu cầu xã hội", nhằm mục đích bồi dưỡng cho sinh viên của mình khả năng hiểu lý thuyết và bằng chứng được rút ra từ nhiều ngành
khoa học xã hội, bao gồm
kinh tế học,
xã hội học,
tâm lý học,
địa lý học,
lịch sử,
luật học,
triết học và
khoa học chính trị[6].Chính sách xã hội nhằm mục đích cải thiện phúc lợi con người và đáp ứng
nhu cầu con người về
giáo dục,
y tế,
nhà ở và
an ninh kinh tế[7]. Các lĩnh vực quan trọng của chính sách xã hội là
phúc lợi và hưởng phúc lợi, chế độ sính sách, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách
an sinh xã hội,
công bằng xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp,
điều kiện sống,
quyền động vật, chế độ chính sách
lương hưu,
chăm sóc sức khỏe,
nhà ở xã hội,
chính sách gia đình,
chăm sóc xã hội,
bảo vệ trẻ em,
loại trừ xã hội,
chính sách giáo dục, các vấn đề về
tội phạm và
tư pháp hình sự,
phát triển đô thị và
lao động.Trung tâm Chính sách xã hội
Malcolm Wiener tại
Đại học Harvard mô tả chính sách xã hội là "
chính sách công và thực tiễn trong các lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe, dịch vụ con người,
công lý hình sự,
bất bình đẳng,
giáo dục và lao động"
[1]. Những cuộc thảo luận về chính sách xã hội ở
Hoa Kỳ và
Canada cũng có thể áp dụng cho chính sách của chính phủ về các vấn đề xã hội như giải quyết
phân biệt chủng tộc[8], vấn đề
LGBT vấn đề (chẳng hạn như
hôn nhân đồng giới)
[9], và tình trạng pháp lý của
phá thai[10], súng ống
[11], việc
an tử (
quyền được chết)
[12], thuốc an thần, chất hướng thần (chất gây nghiện các loại)
[13] và tệ nạn mại dâm
[14]. Ở các quốc gia khác, những vấn đề này sẽ được phân loại theo
chính sách y tế và
chính sách trong nước. Khái niệm Chính sách xã hội lần đầu tiên được hình thành vào
thập niên 1940 do
Richard Titmuss đưa ra khi công tác trong lĩnh vực quản lý xã hội ở Anh
[15].
Nữ thần công lý mô tả công lý được trang bị ba biểu tượng là một thanh kiếm tượng trưng cho sức mạnh cưỡng chế của triều đình; một chiếc cân của con người đang cân nhắc những tuyên bố cạnh tranh trong mỗi bàn tay; và bịt mắt thể hiện sự công bằng
[16]